Lịch sử Kabuki

Kabuki đã có nhiều thay đổi kể từ khi ra đời.

1603–1629: kabuki nữ

Người sáng tạo ra Kabuki, Izumo no Okuni, cầm một thanh Katana và đeo một cây Thánh giá.

Lịch sử kabuki bắt đầu từ năm 1603 khi Okuni, một miko (cô gái trẻ phục vụ trong đền thờ đạo Shinto) ở Izumo Taisha, bắt đầu biểu diễn một phong cách kịch múa mới ở Kyoto. Các nữ diễn viên đóng cả vai nam và nữ trong các vở hài kịch về cuộc sống hàng ngày. Phong cách này ngay lập tức trở nên nổi tiếng; Okuni thậm chí được yêu cầu biểu diễn tại Triều đình. Theo sau những thành công đó, các đoàn kịch đối thủ nhanh chóng bắt chước, và kabuki chính thức ra đời như một loại hình kịch múa sử dụng nữ diễn viên – một thể loại rất khác với cách thể hiện ngày nay. Sự hấp dẫn của nó trong thời ấy đa phần là do chất khôi hài hơi tục tĩu; sự hấp dẫn này được bổ sung bằng việc các diễn viên thường kiêm thêm nghề gái mại dâm.[1] Vì lý do này, kabuki còn được viết là "歌舞妓" (chữ 妓 kỹ trong tiếng Nhật cũng đọc là ki nhưng lại mang nghĩa "gái lầu xanh") trong suốt thời Edo.

Một cuộc hẹn hò giữa một người đàn ông và một thanh niên, có lẽ là diễn viên kabuki. Những diễn viên kabuki trẻ thường được đàn ông tìm đến, đặc biệt là những người thành thị đồng tính (shudo).

Khi kabuki mới ra đời, chỉ có phụ nữ mới tham gia diễn xuất. Và họ nhanh chóng cuốn hút những loại khán giả hủ bại và lôi cuốn sự chú ý của rất nhiều đàn ông. Loại "chú ý" này khiến nhiều người không vừa lòng và chính quyền bắt đầu cảm thấy bị làm mất phẩm giá vì nghệ thuật kabuki. Năm 1629, phụ nữ bị cấm diễn xuất kabuki và bất kỳ một hình thức sân khấu nào khác.

Vì kabuki đã quá nổi tiếng, nên các nam diễn viên trẻ, gọi là wakashu, tiếp nối vị trí của phụ nữ sau khi họ bị cấm diễn. Những thanh niên này có thể thay thế vai trò của phụ nữ vì họ có ít nam tính hơn và có giọng cao hơn so với đa phần đàn ông trưởng thành. Cùng với sự đổi vai giới tình của diễn viên, tầm quan trọng của buổi diễn cũng thay đổi: nhiều kịch tính được thêm vào vở kịch thay vì các điệu múa. Các buổi biểu diễn của họ nói chung đều tục tĩu. Họ cũng hành nghề bán dâm cho khách đồng tính nam. Khán giả thường làm loạn lên, và những vụ cãi vã đôi khi biến thành ẩu đả, để được qua đêm với các diễn viên trẻ đặc biệt đẹp trai, điều này khiến chính quyền cấm các diễn viên nam trẻ vào 1652.

Sau 1653: kabuki nam

Từ năm 1653, chỉ có đàn ông trưởng thành mới được diễn kabuki. Kabuki phát triển thành một hình thức phức tạp và cách điệu hóa gọi là yarō kabuki (野郎歌舞伎 (dã lang ca vũ kỹ, đại ý là, kabuki nam). Sự biến đổi về chất trong phong cách này có ảnh hưởng lớn đến các nhà hát hài kịch kyogen, đặt dưới sự quản lý của Mạc phủ.[1] Kyogen, dù thế nào đi chăng nữa, cùng vô cùng nổi tiếng vào thời gian đó.

Chữ yarō (野郎) (dã lang)cuối cùng rơi mất, nhưng tất cả các vai trong vở kịch kabuki tiếp tục do đàn ông diễn. Các diễn viên nam chuyên đóng các vai nữ, được gọi là onnagata hay oyama (đều viết bằng kanji là 女形, nữ hình), bùng nổ. Những gia đình của các onnangata chuyên nghiệp này hình thành rất nhiều và trong những năm sau này, phần lớn onnagata xuất thân từ những gia đình đó.

Diễn viên onnagata có thể khiến khán giả nghĩ họ chính là phụ nữ thật vì họ trang điểm rất đậm. Onnagata cũng diễn rất nhiều cảnh lãng mạn. Các cảnh này đều được diễn xuất cùng với một người nữa. Đàn ông biết cách giấu thể hình và kích cỡ của mình để trông giống nữ giới hơn. Họ nói bằng giọng the thé. Đó là cái cách mà đàn ông vẫn thường nghĩ về phụ nữ.

Sau hơn 250 năm cấm phụ nữ trình diễn kabuki, onnagata đóng vai trò trung tâm trong nhà hát kabuki, cho đến trước khi lệnh cấm bị dỡ bỏ năm 1879, nghệ thuật onnagata vẫn rất hấp dẫn công chúng, và mất nó có nghĩa là cả gánh hát sẽ sụp đổ. Vì vậy, mặc dù lệnh cấm đã bị dỡ bỏ, vai trò của phụ nữ không còn quan trọng nữa vì đàn ông đã có được các kĩ năng diễn những vai loại này.

Hai loại vai quan trọng được phát triển là: aragoto (phong cách thô ráp) do Ichikawa Danjūrō (16601704) khám phá ra ở Edo, và wagoto (phong cách êm dịu) bởi diễn viên Kamigata vĩ đại, Sakata Tōjūrō (16471709) ở vùng Kyoto-Osaka. Aragoto phong cách vai phô trương, theo đó các diễn viên thường phóng đại từ ngũ, điệu bộ, và thậm chí cả trang phục, chân cẳng, và trang điểm; cái tên bắt nguồn từ từ có nghĩa là "chuyện samurai liều lĩnh", và kịch nghệ thường nhấn mạnh hành động. Nhân vật loại này thường đóng vai anh hùng, và thường phóng đại nam tính. Thể thức "aragoto" được coi là nghệ thuật gia đình. Ngược lại, đặc điểm của "wagoto" là thường có lời nói và điệu bộ bình thường, và kịch nghệ thường về các bị kịch lãng mạn. Tính cách của vai diễn thường là nhạy cảm, dễ xúc động. Hai tính cách này khác nay rất xa, aragoto đóng vai nam tính, và wagoto đóng nhiều vai nữ tính.[2]

Hai diễn viên kabuki Bando Zenji và Sawamura Yodogoro, của Sharaku (1794)

1673–1735: Thời Genroku

Trong thời Genroku, kabuki rất phát đạt. Cấu trúc của vở kịch kabuki được định hình trong thời kỳ này, cũng như nhiều yếu tố cách điệu hóa. Các loại nhân vật thường định rõ. Nhà hát kabuki và ningyō jōruri, thể loại nhà hát múa rỗi phức tạp sau đó được biết đến với cái tên bunraku, trở thành rất gần nhau trong thời kỳ này, và mỗi cái đều có ảnh hưởng đến sự phát triển của nhau. Nhà soạn kịch nổi tiếng Chikamatsu Monzaemon, một trong những nhà soạn kịch kabuki đầu tiên, có một số tác phẩm có tầm ảnh hưởng lớn, mặc dù vở thường được coi là tác phẩm quan trọng nhất của ông, Sonezaki Shinju (Tự sát vì tình ở Sonezaki), thực chất bắt nguồn từ kịch bản bunraku. Giống như nhiều vở kịch bunraku, tuy vậy, nó được sửa lại cho hợp với kabuki, và nó làm xuất hiện nhiều bản tương tự - thực tế, vở này và những vở tương tự gây ra nhiều vụ tự tử phỏng theo kịch khiến chính phủ ban lệnh cấm shinju mono (kịch vì việc hai người yêu nhau phải tự tử) năm 1723. Người ta cho rằng Ichikawa Danjūrō I đã phát triển cách diễn mie[3] và kiểu hóa trang như mặt nạ kumadori.[4].

Vào giữa thế kỷ 18, kabuki bị bunraku thế chỗ trên sân khấu dành cho những tầng lớp thấp của xã hội. Điều này một phần là do sự xuất hiện của một vài nhà viết kịch bunraku tài năng vào thời điểm đó. Không có gì đáng chú ý trong sự phát triển của kabuki cho đến cuối thế kỷ đó, khi nó nổi tiếng trở lại.

Kabuki sau cuộc Minh Trị Duy Tân

Biểu diễn Kabuki vào khoảng năm 1860

Sự thay đổi văn hóa to lớn bắt đầu vào năm 1868 khi Mạc phủ Tokugawa sụp đổ, sự mất đi của tầng lớp samurai, và sự mở cửa của Nhật Bản đối với phương Tây đã giúp cho kabuki một lần nữa hồi sinh. Khi nền văn hóa vật lộn để khắp phục sự thiếu nét riêng biệt của mình, các diễn viên cố tăng cường tiếng tăm của kabuki trong giới thượng lưu và cố hòa trộn phong cách truyền thống với khẩu vị đương thời. Cuối cùng họ cũng thành công về mặt này, và vào ngày 21 tháng 4 năm 1887, họ đã được biểu diễn phục vụ Nhật Hoàng Minh Trị.[5]

Rất nhiều nhà hát kabuki đã bị bom đạn trong Chiến tranh thế giới thứ hai phá hủy, và quân đội chiếm đóng cấm trình diễn kabuki trong một thời gian ngắn sau chiến tranh. Tuy nhiên, năm 1947, lệnh cấm bị bãi bỏ, và việc biểu diễn lại được tiếp tục trở lại.[6]

Kabuki ngày nay

Thời gian ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai là một thời gian khó khăn cho kabuki. Ngoài sự tàn phá đối với phần lớn các thành phố Nhật Bản trong thời chiến còn có xu hướng đương thời từ chối truyền thống và những tư tưởng của quá khứ, kabuki cũng nằm trong số đó.[7] Những vở kịch kabuki truyền thống được cải tiến lại của đạo diễn Tetsuji Takechi rất được công chúng hoan nghênh vào thời điểm đó đã mang lại sự hồi sinh cho tình yêu đối với kabuki ở vùng Kansai.[8] Trong số những ngôi sao trẻ tuổi đã biểu diễn cùng Takechi Kabuki thì Nakamura Ganjiro III (sinh năm 1931) là diễn viên hàng đầu. Ông lần đầu được biết đến với tên Nakamura Senjaku, và thời kỳ đó trong kabuki Osaka được gọi là "Thời kỳ Senjaku" để vinh danh ông.[8]

Ngày nay, kabuki vẫn tương đối được ưa chuộng —nó là loại hình kịch truyền thống Nhật Bản được ưa chuộng nhất- và các ngôi sao thường xuất hiện với các vai trên TV hay màn ảnh rộng.[9] Ví dụ, onnagata nổi tiếng Bandō Tamasaburō V đã xuất hiện trong vài vở kịch không phải kabuki và điện ảnh-thường là vai nữ. Kabuki cũng được một loại hình nghệ thuật nổi tiếng khác của Nhật Bản tham khảo, đó là anime.

Mặc dù có không nhiều các nhà hát lớn ở Tokyo, Kyoto và Osaka, có rất nhiều nhà hát nhỏ ở Osaka, và trên khắp đất nước. Đoàn kịch Ōshika Kabuki, ở Ōshika"大鹿" (Đại Lộc), tỉnh Nagano, là một ví dụ.[10]

Một vài đoàn kịch kabuki dùng phụ nữ cho các vai onnagata, và Ichikawa Kabuki-za (đoàn kịch toàn nữ) được thành lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 2003, một tượng của Okuni được dựng lên ở gần khu Pontochō, Kyoto.

Sự quan tâm đến kabuki đã lan sang cả phương Tây. Các đoàn kịch kabuki thường lưu diễn ở châu Âu và châu Mỹ, và đã có vài vở kịch của phương Tây được chuyển soạn cho kabuki như các vở kịch của Shakespeare. Các nhà viết kịch và tiểu thuyết gia phương Tây cũng đã thử sức mình với đề tài kabuki, ví dụ như vở Hiroshima Bugi (2004) của Gerald Vizenor. Nhà văn Yukio Mishima là người tiên phong và phổ biến việc diễn kabuki theo lối hiện đại, và làm hồi sinh những loại hình nghệ thuật truyền thống khác, như Noh, cho phù hợp với phong cách hiện đại.

Ở Australia, đoàn kịch Za KabukiĐại học Quốc gia Australia đã biểu diễn kịch kabuki từ năm 1976; đây là việc biểu diễn kabuki lâu nhất ở bên ngoài nước Nhật.

Kabuki đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 24 tháng 11 năm 2005.